CỰU ƯỚC LƯỢC KHẢO - BÀI 2: THỨ TỰ CỦA CÁC SÁCH VÀ SỰ SÁNG TẠO


LỜI GIỚI THIỆU
Trong phần cuối của bài trước, chúng ta đã đề cập tới thứ tự của các sách trong Cựu Ước. Ở thời của Chúa Giê-xu, người Do Thái cũng sử dụng những sách như vậy nhưng cách phân chia và sắp đặt thì khác hơn.
Chúng ta hãy xem một vài câu Kinh Thánh trong Tân Ước có nhắc đến Cựu Ước.
·      Lu-ca 24:27 “Đoạn, Ngài bắt đầu từ Môi-se rồi kế đến mọi đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong cả Kinh Thánh.”
·      Lu-ca 24:44 “Đoạn Ngài phán rằng: Ấy đó là điều mà khi Ta...”
Trong thời Chúa Giê-xu, người Do Thái có tất cả các sách mà chúng ta gọi là Cựu Ước ngày nay: gọi Kinh Thánh của người Do Thái. Nhưng họ sắp xếp theo một thứ tự đặc biệt. Họ chia làm 3 nhóm.
A.  Nhóm thứ nhất gọi là các sách Luật pháp (Ngũ Kinh).
§     Sáng-thế ký đến Phục-truyền.
§     Gọi là Torah, nghĩa là “dạy dỗ”; là phần đầu tiên trong Kinh Thánh người Do Thái.
B.  Nhóm thứ hai họ gọi là Các sách Tiên Tri, cũng bao gồm các sách lịch sử. Được chia làm 2 phần: tiền tiên tri và hậu tiên tri.
1.  Tiền tiên tri gồm Giô-suê, Các Quan-xét, 1 & 2 Sa-mu-ên, 1 & 2 Các Vua.
2.  Hậu tiên tri từ các sách Ê-sai đến Ma-la-chi ngoại trừ sách Đa-ni-ên và sách Ca-thương.
C. Cuối cùng là các sách Văn thơ là Gióp, Thi Thiên, Châm-ngôn và 5 cuộn sách da: Nhã-ca, Ru-tơ, Ca-thương, Truyền-đạo và Ê-xơ-tê. Rồi đến Đa-ni-ên, Ê-xơ-ra, Nê-hê-mi và 1 & 2 Sử-ký.
Trong Tân Ước đều trích dẫn cả 3 nhóm sách này của Cựu Ước. Có 94 trích dẫn từ sách Ngũ Kinh, 99 trích dẫn từ các sách Tiên-tri và 85 trích dẫn  từ các sách văn thơ.
·         Lu-ca 11:51: “Là từ huyết Abên cho đến huyết Xa-cha-ri...”
·         Sự chết của A-bên: trong sách luật pháp đầu tiên của người Do Thái (Sáng 4:8)
·         Sự chết của Xa-cha-ri - II Sử-ký 24:20 - quyển sách luật pháp cuối cùng của người Do Thái.
Chúa Giê-xu công nhận toàn bộ Cựu ước là Lời của Đức Chúa Trời. Tại sao điều này quan trọng ?
Chúng ta không phải sắp xếp lại Kinh Thánh theo thứ tự truyền thống của người Do Thái. Vấn đề là Chúa Giê-xu đã chấp nhận không những chỉ một phần Kinh Thánh mà Ngài thừa nhận toàn bộ Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời.
 
DÀN Ý BÀI HỌC
I.  CÁC BẢN CỔ SAO
A. Chúng ta có thể tin chắc rằng các bản dịch Kinh thánh của chúng ta hay các bản dịch Kinh Thánh bằng các ngôn ngữ khác, là Lời của Đức Chúa Trời không?
·         Chắc chắn, vì chúng ta có thể tham khảo Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ, hoặc bản dịch Hy-lạp ngữ, và thủ bản.
B.  Những thư ký sao chép đã rất công phu để bảo tồn bản Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ.
1.  Họ hoàn toàn tin chắc trong tâm trí rằng đó là Lời của Đức Chúa Trời và không có điều chi thay đổi được.
2.  Ví dụ: “trong mỗi sách họ đếm mỗi ký tự xuất hiện bao nhiêu lần; họ chỉ ra ký tự ở giữa của các sách luật pháp và ký tự ở giữa của Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ.....” F.F. Bruce, The Books and the Parchments. London, 1984, 1991.P.108.
3.  Bạn có thể tưởng tượng họ đọc qua toàn bộ các sách luật pháp và đếm số ký tự rồi mang bản sao chép ra và đếm tất cả ký tự một lần nữa để xem có sai sót ký tự nào không.
1. Từ ngữ ở giữa nằm trong Lê-vi-ký 10:16;
2. Ký tự ở giữa là vav nằm trong Lê-vi-ký 11:42.
4.  Kethib-Qere: Khi người sao chép gặp phải một bản dịch hơi khác nhau ông ta đặt phần đó trở lại trong nguyên bản (Kethib) và chép lại chỗ bị thay đổi ngay bên lề trong mỗi phần của nguyên bản.
5.  Họ đã thành công tốt đẹp đến chừng nào?
C.  Các Cuộn Bản Thảo ở Biển Chết
1. Các cuộn bản thảo này được khám phá năm 1947, các bản này đã được ghi chép khoảng 1000 năm trước những thủ bản cổ nhất. Vậy mà các bản Kinh Thánh của người Do Thái hầu như đúng với bản dịch này.
a. Có một số thay đổi nhỏ trong chính tả và cách diễn đạt, nhưng thường thì giống nhau.
b. Các cuộn bản thảo bao gồm toàn bộ sách Ê-sai và các phần của những sác Cựu Ước ngoại trừ sách Ê-xơ-tê.
2. Có tất cả 190 cuộn sách bằng da tìm thấy trong 11 hang động. Gồm 20 cuộn của Sáng-thế ký, 14 cuộn của Xuất, 17 cuộn của Phục, 34 cuộn của Thi-thiên, từ 20 đến 24 cuộn thuộc Êsai.
a. Điều này chứng tỏ rằng Cựu Ước không hề thay đổi.
b. Điều này cũng nói lên rằng Tân Ước không thay đổi.
D. Dịch thuật: theo 02 cách
1.  Dịch theo nghĩa đen hoặc theo chức năng tương đương.
2.  Các bản dịch: bản dịch 70, Sách ngũ kinh của người Samari, Targums của người A-ra-mít, bản Peshitta của người Si-ry cổ.
·      Bản dịch 70 (Bản dịch Hy-lạp ngữ từ tiếng Hê-bơ-rơ) là bản cổ nhất được dịch từ thủ bản.  
·      Chúng ta có tất cả mọi bằng chứng này để để xác minh Kinh thánh Cựu ước.
II.  SỰ SÁNG TẠO
A.  Sự sáng tạo
1.  Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo: Cả vũ trụ đã được dựng nên theo sự khôn ngoan của Ngài.
a.  Đức Chúa Trời không phải là một linh hồn vũ trụ, không phải là một sức mạnh không có thân vị.
·      Ngài không lệ thuộc vào vũ trụ hay bất cứ một điều gì trong vũ trụ.
b.  Vũ trụ là kết quả của kế hoạch khôn ngoan của Đức Chúa Trời mà Ngài tạo nên bằng quyền năng của chính Ngài.
2.  Thánh Basil nói “Việc đo lường đại dương bằng một chiếc cốc nhỏ còn dể dàng hơn là hiểu được sự vĩ đại của Đức Chúa Trời bằng tâm trí loài người.
·      Nhưng Đức Chúa Trời không cố gắng đem cả đại dương vào trong chiếc cốc mà là đưa chiếc cốc vào trong đại dương.
B. Chữ “Bara” (Sự sáng tạo) trong Sáng thế ký 1:1, 21, 27.
1. Loài người được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời: khôn ngoan, nhận thức, có năng lực siêu nhiên, có ý thức đạo đức.
2. khả năng xây dựng, lập kế hoạch, vẽ, làm thơ, âm nhạc, sáng tạo, biết suy nghĩ, tính triết lý.

THẢO LUẬN NHÓM
Chúng ta có thể tin chắc Kinh Thánh Cựu Ước là Lời của Đức Chúa Trời theo như cách người Do Thái và Chúa Giêxu Christ tin đó là Lời đáng tin cậy Đức Chúa Trời không? Thảo luận câu hỏi này và trưng dẫn những chứng cứ.
 
TỰ NGHIÊN CỨU
Liệt kê 3 câu Kinh Thánh Chúa Giê-xu trích dẫn từ 3 phần của Cựu Ước được ghi lại trong Tân Ước.
1.  Từ sách Luật pháp
2.  Từ các sách Tiên tri
3.  Từ các sách Văn thơ