Thư của các vị sứ đồ sau này đều khai triển ý chính của bài giảng trên núi của Chúa Giê-xu cả. Sứ đồ Phi-e-rơ trong thư thứ nhất 2:9 có ghi: ”Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài.”
Phao-lô trong thư Phi-líp 2:15 cũng viết: ”Hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vết, không tì, không chỗ trách được. Lại giữa dòng dõi ấy chiếu sáng như đuốc trong thế gian.”
Chúng ta là muối của đất, nhưng muối phải mang tính mặn. Khi nào không còn mặn nữa, muối phải bỏ đi vì vô dụng. Đó là lối nói tiêu cực.
Chúng ta là ánh sáng của trần gian, nhưng phải nhớ vị trí của ánh sáng. Núi cao là nơi đèn rọi xa được; chân đèn cũng là chỗ đặt đèn lên để soi khắp nhà. Còn thắp đèn mà lấy thùng úp lại thì đèn trở thành vô dụng. Cuối cùng Chúa kết luận bài dạy về ánh sáng rằng: ”Sự sáng các người phải soi trước mặt người ta như vậy để họ thấy việc làm của các người mà ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời.”
Vấn đề chính không phải là danh hiệu, nhưng là cách sống đạo. Là muối nhưng có mặn không mới quan trọng. Là ánh sáng nhưng có chiếu vào cõi tối tăm không hay là che đậy lại. Đạo Chúa thực tế là như vậy.
Điều đầu tiên ta cần xét là tại sao người tin Chúa phải trở thành muối hay ánh sáng? và tại sao chúng ta muốn được như vậy?
Chúa Giê-xu có ba lý luận ở chỗ này:
1. Lý luận theo định nghĩa: muối phải mang tính mặn. Bản sắc của muối là mặn. Ánh sáng cũng vậy, bản sắc của ánh sáng là soi sáng. Đây là những trường hợp trong tự nhiên, không cần phải chứng minh gì cả ai cũng hiểu. Nhưng khi nói như thế là đã có hàm ý phê bình chỉ trích rồi. Nghĩa là, đừng bao giờ quên tính mặn của muối, nếu là muối thật. Cũng đừng bao giờ quên tính soi sáng của ánh sáng, nếu là đèn thắp sáng.
2. Lý luận theo tính cách phê bình: Nghĩa là, vị trí của ánh sáng không được phản lại với mục đích của nó. Chúng ta được ví sánh như một cái thành xây trên núi thì không che khuất được, nhưng ai cũng trông thấy. Chúng ta là người tin Chúa thì mọi người đều phải nhận ra mới phải. Người tin Chúa và người không tin Chúa phải có những tương phản như sáng với tối. Nhưng Chúa lý luận xa hơn nữa, gọi là lý luận thậm xưng, khi nói đến hình ảnh đèn thắp sáng rồi úp lại trong thùng thay vì đặt lên chân đèn là chỗ của nó. Đó là chuyện trái ngược không bao giờ xẩy ra và chỉ có kẻ dại khờ mới làm như vậy. Nói khác đi, Chúa lý luận: Ta đã cho các anh trở thành ánh sáng, như thành trên núi không khuất được. Các anh có cố tình giấu ánh sáng đi hay không? Nếu làm như thế các anh thật là kỳ quặc và dại dột!
3. Lý luận theo tính vô dụng: khi muối không mặn và khi đèn không sáng. Nhiều thứ chung quanh ta cũng trở nên vô dụng nếu bản sắc hay tính chất của nó không còn nữa, dù rằng có thể sử dụng lại trong hình thức nào khác. Muối và ánh sáng thì khi mất bản sắc là hoàn toàn vô dụng, chỉ loại bỏ mà thôi. Ánh sáng mang tính chất chiếu sáng, khi không chiếu sáng nữa thì chẳng còn dùng làm gì được. Khi ánh sáng mất sáng là giá trị nó cũng hết. Vì ánh sáng chỉ mang một bản sắc.
Người tin Chúa cũng hoàn toàn vô dụng nếu hữu danh vô thực. Phao-lô cũng đề cập đến loại người như thế khi bảo rằng: ” chỉ có hình thức đạo đức nhưng phản đối quyền năng của đạo.” Những người ấy tự xưng là người tin Chúa, nhưng không thật như vậy. Họ chỉ muốn bề ngoài là người tin Chúa, nhưng không hành động, không sống theo lời Chúa dạy. Đó là hình ảnh muối không mặn và đèn không ánh sáng.
Tệ hại nhất là những thành phần sống lưng chừng. Nghĩa là không hẳn theo đời, vì cho đời là xấu, mà cũng không hẳn sống đạo để thực sự được an bình và hi vọng.
Nói tóm lại, một người tín đồ chân chính của Chúa Giê-xu không thể nào sống kín giấu được hoặc là không thể không làm cho người khác để ý. Người thật sự tin Chúa và hành động theo lời Chúa dạy phải nổi bật lên. Người ấy sẽ như muối hay như thành trên núi.
Nhưng ta còn thấy khía cạnh này của bài học nữa: Người tin Chúa chân chính không bao giờ muốn che giấu ánh sáng trong tâm hồn mình. Người ấy sẽ cảm thấy kỳ quặc khi tự xưng là tín đồ của Chúa Cứu Thế mà lại cố tình che giấu. Một người đã hiểu như thế nào là tín đồ chân chính của Chúa, đã nhận thức ân sủng của Chúa cho mình và những gì Chúa thực hiện trong đời sống mình, cũng hiểu rằng Chúa đưa mình đến chỗ làm con dân của Chúa để mình cũng ảnh hưởng đến kẻ khác chung quanh, và làm nhân chứng cho Chúa, thì không thể nào che giấu niềm tin của mình được, vì đó là một vinh hạnh cần chia sớt với kẻ khác.
Việc so sánh người tin Chúa với muối và ánh sáng còn có thêm nghĩa: hễ vô dụng thì bị loại bỏ nữa. Ánh sáng bị đậy trong thùng kín là chuyện vô lý, tuy nhiên người tin Chúa có thể bị ma quỷ hay những sức mạnh của nó chế ngự đến nỗi không chiếu sáng được nữa, mặc dù đã từng được thắp sáng.
Chúa Giê-xu còn đi xa hơn nữa. Chúa nói đến việc không thể nào phục hồi tính mặn được cho muối đã mất mặn. Một người đã tin Chúa nhưng không mang đức tính của Chúa, chẳng sớm thì muộn cũng bỏ Chúa, và khi bỏ rồi, trở lại không phải là dễ. Mặc dù bề ngoài vẫn đi lễ, vẫn chịu các phép bí tích, nhưng tính mặn và độ sáng bên trong đã mất rồi. những người như thế mất mát rất nhiều mà không hay.
Chúa Giê-xu kêu gọi mọi người đến với Chúa, không phải một lần là đủ hết, nhưng Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi. ai tự nhận mình là muối đã giảm độ mặn; ai thấy rằng ánh sáng trong đời mình đã bị trần gian bao trùm gần tắt, phải lắng nghe tiếng Chúa để trở về. Người Cha hiền luôn luôn mong đợi đứa con hoang đàng trở về. Chúa vẫn đợi chờ chúng ta đến với Chúa mỗi ngày sao cho tính mặn thêm đậm đặc và ánh sáng chiếu thêm xa hơn nữa.
Làm thế nào chiếu ánh sáng trong ta cho người đời biết? Chúa Giê-xu trả lời: ” Sự sáng của các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, để họ thấy các việc lành của các ngươi mà ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời.”
Ta thấy rằng mục đích của cuộc đời người tin Chúa là làm cho Chúa được vinh quang chứ không phải cho chính mình được tiếng khen. Làm việc lành không phải để cho mình được đời tôn phục, nhưng là để cho mọi người biết được tình thương của Chúa là động cơ thúc đẩy ta hành động, và họ được thu hút bằng tình thương như thế. Con người riêng của ta không còn nữa, chỉ còn vinh quang của Chúa và ta được vinh quang ấy bao phủ.
Ta để ý thì thấy rằng, không những ta làm việc lành là vì danh Chúa, nhưng còn để cho mọi người chung quanh ta ca ngợi Chúa nữa. Khi ca ngợi Chúa như vậy, họ sẽ cảm kích về Chúa và có thể tiến đến chỗ tin nhận Ngài. Người tin Chúa phải tạo được ngạc nhiên trong vòng người chưa tin Chúa, và từ đó đưa họ đến chỗ tin Chúa.
Bài học này giúp ta xét lại đời mình trước ánh sáng của lời Chúa. Ai bằng lòng nghe tiếng Chúa, hãy sống đạo cẩn thận. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, sống cuộc đời hữu ích cho đồng bào và quy vinh quang cho Chúa.